Khi việc làm phim không thể một mình mình như làm thơ hay vẽ tranh, thì điện ảnh độc lập cho bạn sự tự do của người làm thơ hay vẽ tranh. Vậy phim độc lập là gì? Và nó độc lập với cái gì ?
Theo cuốn Từ vựng điện ảnh (Minh Tùng, Phương Lan, Vinh Sơn biên soạn) nằm trong Tủ sách điện ảnh (với cả hai lần xuất bản: NXB Văn Hóa Sài Gòn năm 2007 và NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh năm 2011 ), phim độc lập (independent film) “là những bộ phim có kinh phí thấp không do các hãng phim lớn sản xuất. Phim độc lập đôi khi có chất lượng rất cao và giành được nhiều giải thưởng.” Phần đông chúng ta đều có cách hiểu về phim độc lập như khái niệm ngắn gọn trên song “kinh phí thấp” có phải là đặc điểm cốt yếu của phim độc lập? Bởi với những nền điện ảnh khiêm tốn như Việt Nam, các bộ phim chủ yếu được sản xuất với kinh phí eo hẹp, liệu cơm gắp mắm, thì gần như không có phim nào không phải là phim độc lập cả? Còn với điện ảnh thế giới, bạn có thể chỉ ra hàng tá phim độc lập có kinh phí không thấp để hoài nghi khái niệm trên, thậm chí thêm hàng tá tên đạo diễn quyền lực cuả Mỹ đã hoặc đang là các nhà làm phim độc lập. Để tôi giúp bạn: John Cassevetes, Robert Altman, Martin Scorsese, David Lynch, Goerge Lucas, James Cameron, anh em nhà Coen, Quentin Tarantino, Gus Van Sant, Jim Jarmusch, Steven Soderbergh, Chirstopher Nolan, Darren Aronfsky, Sofia Coppola…Nhìn danh sách này, bạn dễ chờ đợi một kiến giải cho thắc mắc: liệu phim độc lập có phải tình thế tạm thời, là con đường cực chẳng đã… để các nhà làm phim đi từ vô danh đến có danh với “những bộ phim không độc lập”? Nhưng trước hết hãy tham khảo một khái niệm khác, dài hơn, về phim độc lập.
Theo cuốn Thuật ngữ điện ảnh – truyền hình (Vũ Xuân Quang, Trần Thanh Tùng biên soạn) của Hội Điện ảnh Việt Nam xuất bản năm 2009, phim độc lập “còn gọi là phim vị nghệ thuật (art film), do một người hoặc một nhóm người tự sản xuất không vì lợi nhuận, không có công ty chủ quản, với chi phí thấp, công nghệ đơn giản. Trước đây, người ta gọi là “phim tác giả”, nhưng từ này rất khó hình dung bởi không có phim nào là khuyết danh. Gần đây người ta gọi là phim độc lập là tương đối sát nghĩa, bởi tính độc lập về nội dung, tư tưởng, độc lập về tiêu chí nghệ thuật, độc lập về tài chính. Cũng có thể gọi đó là phim vị nghệ thuật (art film), bởi đạo diễn có thể tự do hoàn toàn tự trong sáng tạo để bộc lộ quan điểm thuần khiết của mình đối với nghệ thuật. Ở phương Tây, phim độc lập bao gồm cả phim ngắn, phim tài liệu… Phim độc lập tách biệt khỏi dòng phim đại chúng (mainstream), tức dòng phim thương mại, nên ở Mỹ và Châu Âu nó thường được chiếu trong những rạp riêng, cho một bộ phận khán giả. Tuy nhiên, phim độc lập cũng có thể gây ra “cơn sốt” về doanh thu.” Khái niệm thứ hai này nhìn nhận phim độc lập ở khía cạnh mỹ học điện ảnh. Nhấn mạnh vào yếu tố độc lập trong tư duy sáng tạo. Nó đánh đồng khái niệm phim độc lập với phim tiên phong độc lập (Avant garde), dòng phim nằm ngoài nền công nghiệp điện ảnh, thách thức những phim tự sự có tính thương mại. Ra đời vào những thập niên đầu tiên của thế kỉ XX, phim tiên phong (trong dòng chảy của Nghệ thuật tiên phong) mang tinh thần thực nghiệm gồm 6 xu hướng chính: hoạt họa trừu tượng, chủ nghĩa đa đa, chủ nghĩa siêu thực, điện ảnh tinh khiết, các phim tài liệu trữ tình và thể loại tự sự thực nghiệm. Nó gần với hoạt động của các nhà văn, họa sĩ của chủ nghĩa hiện đại hơn là nền công nghiệp điện ảnh. Đơn cử một vài đặc điểm của phim tiên phong như: những người làm phim dùng tiền riêng hoặc tìm đến các nhà bảo trợ giàu có để làm những bộ phim thể hiện say mê sáng tạo, chống lại văn hóa đại chúng. Họ cũng thành lập các câu lạc bộ điện ảnh với những rạp chiếu phim chuyên biệt hóa để trình chiếu điện ảnh nghệ thuật, điện ảnh thực nghiệm. Chúng ta thấy rõ ràng cách hiểu phim độc lập theo khái niệm thứ hai không khác xứ mệnh của phim tiên phong là mấy. Nó thu hẹp phim độc lập vào một phần tử phim tiên phong độc lập. Và chắc chắn sẽ vấp phải sự nhầm lẫn khi nhắc đến khái niệm phim tác giả trong “Học thuyết tác giả” của Andrew Sarri.
Nhìn từ lịch sử điện ảnh, khái niệm phim độc lập đã được đẻ ra từ nền công nghiệp điện ảnh Mỹ. Phim độc lập được sản xuất bởi những hãng phim độc lập. “Các hãng phim độc lập được định nghĩa là hãng phim không có sự kết hợp thành dây chuyền, nó không thuộc sở hữu cuả một hãng phát hành, và cũng không sở hữu hãng phát hàng nào.” (Lịch sử điện ảnh tập 1, tác giả Kristin Thompson và David Bordwell, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007). Theo người viết bài này, chính vấn đề phát hành mới là điều cốt tủy, làm nên sự khác biệt để phân biệt phim độc lập. Các nhà làm phim độc lập có thể được bảo trợ tài chính đủ để thực hiện các tác phẩm nhưng chưa bao giờ họ được chắc chắn có một chỗ đỡ đầu cho đứa con tương lai của mình. Không có chỗ phát hành? Không cần phát hành? Họ, hoặc bị coi là quay lưng với khán giả, tìm đến các liên hoan phim để tranh giải; hoặc đến liên hoan phim tìm cơ hội để chào bán phim cho các hãng phát hành; hoặc chọn con đường không phải là các rạp chiếu phim để phim của mình được chiếu, như phát hành video, DVD, trên truyền hình hay internet. Từ đó mà vấn đề kinh phí hay cá tính độc đáo mới được xử lý. Thực tế, tại Hollywood, chính những khi các hãng lớn làm ăn sa sút, sản lượng phim sản xuất thiếu hụt, là cơ hội để các hãng phim độc lập có được thị phần phát hành. Hay chính các nhà độc lập đã tạo ra Mùa phim hè khi mà trước đây mùa hè được coi là mùa ế ẩm của thị trường phát hành phim.
Những hãng phim độc lập nằm ngoài hệ thống Hollywood với 6 hãng phim lớn – Big six (Warner Bros, Paramount, Columbia, 20th Century Fox, Walt Disney, Universal Pictures) nhưng chính Hollywood lại được tạo ra bởi những người hoạt động điện ảnh độc lập đầu tiên. Chuyện này xảy ra như thế nào? Nó là kết quả của những vụ kiện cáo quanh vấn đề quyền sở hữu sáng chế khi mà Công ty cấp giấy phép điện ảnh (MPPC) do Edison đứng đầu với cái quyển sở hữu sáng chế máy quay, muốn kiểm soát tất thảy hoạt động của ngành công nghiệp điện ảnh từ sản xuất đến phát hành. Trong khi đó vẫn tồn tại những rạp chiếu phim không được cấp phép từ MPPC, cánh cửa mở rộng cho những nhà sản xuất, phát hành cũng không được cấp phép từ MPPC. Bộ phận không được MPPC cấp phép này được gọi là những nhà hoạt động điện ảnh độc lập. “Các rạp chiếu độc lập có thể thuê phim từ các công ty của châu Âu bị ngừng kinh doanh do ảnh hưởng của MPPC. Để tránh các vụ kiện vi phạm bản quyền của MPPC, các công ty độc lập tuyên bố là đang sủ dụng những máy quay có những cơ chế kỹ thuật khác.” (sđd ) Sau nhiều vụ kiện cáo, với sự ủng hộ của chính phủ Mỹ, “Kết quả là trong suốt những năm đầu thập kỷ thứ nhất của thế 20, nhiều thành viên cuả bộ phận độc lập của nền công nghiệp điện ảnh bắt đầu thành lập nhóm độc quyền mới, ổn định hơn mà sau này tạo thành nền công nghiệp điện ảnh Hollywood.” (sđd)
Phim độc lập Mỹ có ba thời kỳ ấn tượng. Vào thập niên 40 và 50, khi một số diễn viên đạo diễn có tiếng của Hollywood tách ra hoạt động độc lập. Vào cuối thập niên 60 và thập niên 70, với sự lới lỏng của những đạo luật sản xuất phim, điện ảnh độc lập được sự thu hút mạnh mẽ khi khởi phát phim kinh dị giật gân, phim gợi dục, phim bạo lực… Và thập niên 90, chứng minh sự lan tỏa, ảnh hưởng của phim độc lập nghệ thuật với những gương mặt độc đáo sáng danh. Đây cũng là thời kỳ phim độc lập thực sự bùng nổ với sự xuất hiện của điện ảnh kỹ thuật số. Đối mặt với việc phát hành mù mịt, kinh phí sản xuất khiêm tốn,vấn đề kiểm duyệt (Sự kiểm duyệt có thể cũng đóng góp một trở ngại trong việc phát hành của phim độc lập do phim độc lập thường “bạo dạn” hơn phim hãng lớn), điện ảnh độc lập đã tự làm phong phú nó ở nhiều thể loại mà sự độc đáo chính ở việc pha trộn hay đưa vào các yếu tố chống thể loại để làm mới điện ảnh truyền thống ở cả hình thức thể hiện lẫn đề tài khai phá.Khái niệm phim độc lập không đồng nhất với phim nghệ thuật nhưng phim độc lập là mảnh đất lý tưởng để tố chất nghệ thuật của nhà làm phim được tát cạn.
Với các nền điện ảnh ngoài con ngáo ộp Hollywood, nhắc đến phim độc lập, người làm phim có cảm nhận về mặt tinh thần nhiều hơn. Bạn chọn làm phim độc lập là bạn tách ra khỏi hệ thống dây truyền mang tính cung cầu, đầu tư – thu hồi, kiểm duyệt, mô phạm để xác lập quy tắc thẩm mỹ, ngôn ngữ phim của chính mình. Bạn độc lập với những thứ ngoài mình để đặt cái tôi sinh động hấp dẫn vào trung tâm sáng tạo. Quá trình làm phim của bạn, bấp bênh và hiểm nguy hơn nhưng bạn luôn có hơn một sự lựa chọn để thực hiện những cam kết thẩm mỹ của mình, bạn không thành nạn nhân thường xuyên của cái gọi là kế hoạch sản xuất hay phương tiện kỹ thuật. Điều này đã được chứng minh bởi các nhà làm phim độc lập khi họ tạo nên: Làn sóng mới của Pháp, Làn sóng mới của Nhật, Làn sóng mới Đài Loan, Thời kỳ phục hưng của điện ảnh Iran hay gần nhất là Điện ảnh thành thị của thế hệ đạo diễn thứ sáu Trung Quốc.
Điện ảnh Việt Nam là nền điện ảnh loay hoay. Nó thiếu gì? Nó thiếu thẩm mỹ. Ở cả khu vực người ta gọi là điện ảnh nghệ thuật và điện ảnh thương mại. Đó là cái đẹp của sự tự do mà người làm phim độc lập nghệ thuật với niềm tin không có bộ phim nào lạc lõng, không có đạo diễn nào lẻ loi, dám đi đến tận cùng. Mặt khác, khi điện ảnh thương mại còn loay hoay trả những bài vỡ lòng của những bộ phim hài, tình cảm, kinh dị, hành động…của Hollywood, thì những nhà làm phim độc lập thương mại cũng có thể làm hơn thế, dũng cảm tạo ra văn phạm hấp dẫn của chính mình, hướng đến khán giả và thấy họ ở trên cao, kỳ vọng hơn, chứ không chủ đích qua mặt hay đánh gạt nhằm chăm chăm thọc tay vào ví của họ.